Các điều ước về biên giới đất liền Việt Nam – Cam-pu-chi-a và công tác phân giới cắm mốc biên giới giữa hai nước

Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền năm 2025

Các điều ước về biên giới đất liền Việt Nam – Cam-pu-chi-a và công tác phân giới cắm mốc biên giới giữa hai nước

Đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Cam-pu-chi-a dài khoảng 1137km, đi qua 10 tỉnh của Việt Nam là Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và 10 tỉnh của Cam-pu-chi-a là Ra-ta-na-ki-ri, Môn-đun-ki-ri, Công-pông-chàm, Ca-ra-chê, Svey-riêng, Prây-veng, Kần-đan, Tà-keo và Kăm-pốt.

Điều kiện khí hậu tại khu vực này chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới, gió mùa, độ ẩm cao, thuận lợi cho trồng cây công, nông nghiệp, nuôi thủy hải sản, giúp hình thành nên những doanh trại trồng cây công nghiệp lớn hay những cánh đồng lúa trải dài. Thông thường, mùa mưa từ tháng 4, tháng 5 đến tháng 9, tháng 10 dương lịch, chiếm tới 90% lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 9, tháng 10 đến tháng 4, tháng 5 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26 – 27ºC.

Khác với hai tuyến biên giới Việt Nam – Lào và Việt Nam – Trung Quốc, đường biên giới này có địa hình tương đối bằng phẳng, ít đồi núi hiểm trở. Chính vì vậy, hệ thống giao thông liên kết giữa hai nước bằng đường bộ, đường sông phát triển thuận lợi, hình thành các tuyến đường bộ như đường liên quốc gia, quốc lộ, tỉnh lộ, đường sông và nhiều đường mòn, đặc biệt sau này sẽ hình thành tuyến đường sắt, đường bộ xuyên Á nối kết với các trung tâm thương mại lớn của khu vực, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy giao lưu, hiểu biết lẫn nhau cũng như mang lại nhiều lợi ích thiết thực về kinh tế và thương mại cho cư dân hai bên biên giới. Bên cạnh hệ thống giao thông được cải thiện, hệ thống cửa khẩu biên giới đã và đang được Chính phủ hai nước quan tâm đầu tư. Tính đến tháng 7 năm 2012, hai nước Việt Nam – Cam-pu-chi-a đã thỏa thuận mở 10 cửa khẩu quốc tế và 12 cửa khẩu chính, trong đó có 19 cửa khẩu đường bộ và 3 cửa khẩu đường sông là  Thường Phước (Đồng Tháp) – Côk-rô-ca (Prây-veng); sông Tiền (An Giang) – Ca-om-sam-no (Kần-đan); Vĩnh Hội Đông (An Giang) – Kom-pung-kroxăng (Tà-keo). Hệ thống cửa khẩu này đã giúp cho việc trao đổi hàng hóa giữa hai nước, sự giao lưu của dân cư hai bên nhanh chóng và thuận tiện.

Các điều ước về biên giới trên đất liền Việt Nam – Cam-pu-chi-a

Việt Nam và Cam-pu-chi-a đã chính thức ký kết 4 hiệp ước, hiệp định về biên giới trên đất liền giữa hai nước, cụ thể là:

Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chi-a ký ngày 20/7/1983 tại thủ đô Phnôm-Pênh (Cam-pu-chi-a).

Hiệp ước gồm 4 điều. Nội dung pháp lý quan trọng nhất được thể hiện tại Điều 1, ghi rõ “Trên đất liền, hai bên coi đường biên giới hiện tại giữa hai nước được thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương (SGI), thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất (kèm theo 26 mảnh bản đồ đã được hai bên xác nhận), là đường biên giới quốc gia giữa hai nước”. Hai bên cũng thống nhất nguyên tắc “ở nơi nào đường biên giới chưa được vẽ trên bản đồ hoặc hai bên đều thấy chưa hợp lý thì hai bên sẽ cùng nhau bàn bạc việc giải quyết trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Cam-pu-chi-a, phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế”.

Điều 2 Hiệp ước quy định hai bên sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp để hoạch định đường biên giới giữa hai nước trong vùng nước lịch sử đã được hai bên thỏa thuận theo tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Cam-pu-chi-a, phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế.

Điều 3 ấn định việc thành lập Ủy ban liên hợp để hoạch định đường biên giới trên đất liền và đường biên giới trên biển và soạn thảo Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước.

Điều 4 quy định về điều khoản thi hành, theo đó Hiệp ước nguyên tắc sẽ được phê chuẩn và có hiệu lực kể từ ngày trao đổi văn kiện phê chuẩn (ngày 27/9/1983).

Hiệp định quy chế biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chia ký ngày 20/7/1983 tại thủ đô Phnôm-Pênh (Cam-pu-chi-a).

Hiệp định gồm 19 điều, ngoài việc tái khẳng định những nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ biên giới giữa hai nước, đã thỏa thuận những biện pháp tạm thời nhằm duy trì việc quản lý biên giới, trong khi phần lớn đường biên giới giữa hai nước chưa được phân giới cắm mốc rõ ràng, cụ thể là:

– Hai bên tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; hợp tác quản lý, bảo vệ đường biên, mốc giới, bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới; giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ biên giới bằng biện pháp hòa bình.

– Hai bên giải quyết vấn đề qua lại giữa hai quốc gia, giữa các địa phương và việc qua lại của cư dân biên giới; giao thông đường bộ, đường thủy giữa hai nước và các vấn đề khác liên quan trên cơ sở tôn trọng lợi ích chính đáng của các bên và quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân hai bên trong khu vực biên giới.

– Hai bên cùng hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; hợp tác khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên, môi trường ở khu vực biên giới…

Hiệp định có giá trị trong 5 năm từ khi Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới hai nước có hiệu lực (tức là ngày 27/9/1983). Ba tháng trước khi hết hạn, nếu không bên nào đề nghị thay đổi, Hiệp định sẽ tự động gia hạn thêm 5 năm.

Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chi-a ký ngày 27/12/1985 tại thủ đô Phnôm-Pênh (Cam-pu-chi-a).

Để xác định chính thức đường biên giới hai nước, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, ngày 27/12/1985, hai nước đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia. Hiệp ước gồm 5 điều với các nội dung chủ yếu sau:

Điều 1 nêu rõ, căn cứ vào Điều 1 của Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam – Cam-pu-chi-a ký ngày 20/7/1983 và các biên bản giữa đoàn đại biểu Chính phủ hai nước trong Ủy ban liên hợp hoạch định biên giới ký ngày 13/7/1984 và ngày 8/12/1984, hai bên đã thỏa thuận hoạch định đường biên giới quốc gia trên đất liền giữa hai nước và được thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất (26 mảnh) và bản đồ tỷ lệ 1/50.000 UTM (40 mảnh).

Điều 2 quy định các vấn đề liên quan đến sông, suối, rạch biên giới theo nguyên tắc sông, suối biên giới dù có đổi dòng, đường biên giới vẫn giữ nguyên; những cù lao, bãi bồi dọc sông, suối biên giới ở phía bên nào sẽ thuộc bên đó; đối với các cầu biên giới, đường biên giới đi chính giữa cầu.

Điều 3 đề cập đến việc giải quyết vấn đề biên giới trên biển. Tuy nhiên, do quan điểm hai bên còn xa nhau nên Hiệp ước chỉ nêu nguyên tắc chung là lấy căn cứ theo hải đồ do Cơ quan đo đạc thủy văn Pháp in năm 1955 và 1956 tỷ lệ 1/182.650 để nghiên cứu giải quyết.

Điều 4 nêu thỏa thuận thành lập Ủy ban liên hợp phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới giữa hai nước và nhiệm vụ của Ủy ban liên hợp này. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc trên thực địa, Ủy ban liên hợp sẽ soạn thảo Nghị định thư cuối cùng.

Điều 5 quy định rõ điều khoản thi hành, theo đó hai bên sẽ trao đổi thư phê chuẩn và Hiệp ước có hiệu lực kể từ ngày trao đổi thư phê chuẩn Hiệp ước.

Hiệp ước được Hội đồng nhà nước Việt Nam phê chuẩn ngày 30/1/1986 và Quốc hội Cam-pu-chi-a phê chuẩn ngày 7/2/1986. Ngày 22/2/1986, tại thành phố Hà Nội, hai bên đã trao đổi văn kiện phê chuẩn Hiệp ước và Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam – Cam-pu-chi-a có hiệu lực từ ngày này.

Hiệp ước giữa nước CHXHCN Việt Nam và Vương quốc Cam-pu-chi-a bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985

Để tạo cơ sở pháp lý thuận lợi triển khai công tác phân giới cắm mốc trên thực địa phù hợp với tình hình thực tế, ngày 10/10/2005, tại thành phố Hà Nội, hai nước ký Hiệp ước bổ sung Hiệp ước Hoạch định biên giới năm 1985 với các nội dung chính như sau:

– Khẳng định giá trị của Hiệp ước năm 1985, nhấn mạnh văn kiện ký kết lần này là Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985, nhằm mục đích “sớm kết thúc tiến trình phân giới và cắm mốc”. Điều III (mục 4) và Điều IV (mục 1) khẳng định quyết tâm này bằng quy định hai bên thống nhất thông qua kế hoạch tổng thể phân giới cắm mốc trước cuối năm 2005, phấn đấu hoàn thành phân giới cắm mốc trước tháng 12/2008.

– Về sông suối biên giới, thống nhất điều chỉnh đường biên giới đi vào giữa dòng sông suối, để toàn bộ sông suối biên giới là sông suối chung giữa hai nước.

– Để tạo điều kiện kỹ thuật thuận lợi cho quá trình phân giới và cắm mốc đường biên giới trên đất liền, hai bên thống nhất rà soát việc chuyển vẽ đường biên giới từ bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 sang bản đồ UTM tỷ lệ 1/50.000. Đối với những khu vực mà hai bên không nhất trí được về kết quả đối chiếu cũng như giải pháp kỹ thuật thì đường biên giới tại các khu vực đó sẽ giữ nguyên như trên bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000.

– Về quản lý biên giới: cho đến khi hai bên hoàn thành công việc phân giới cắm mốc, việc quản lý đường biên giới sẽ tiếp tục được thực hiện theo Thông cáo báo chí ngày 17/01/1995: ở những nơi đã phân giới cắm mốc thì quản lý theo kết quả phân giới cắm mốc, ở những nơi chưa phân giới cắm mốc thì tiếp tục quản lý như trước ngày 17/01/1995.

– Điều IV quy định xây dựng bản đồ đường biên giới quốc gia, Nghị định thư về phân giới và cắm mốc đường biên giới trên đất liền như một bộ phận cấu thành của Hiệp ước Hoạch định biên giới năm 1985 và Hiệp ước bổ sung.

Hiệp ước bổ sung là cơ sở để hai nước hoàn thành dứt điểm công tác phân giới cắm mốc, thực hiện phương châm mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã thoả thuận là xây dựng đường biên giới Việt Nam – Cam-pu-chi-a thành đường biên giới hoà bình, ổn định, hợp tác, cùng phát triển.

Công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam – Cam-pu-chi-a trên thực địa

Từ sau khi hòa bình được lập lại ở Đông Dương (1954), Việt Nam và Cam-pu-chi-a đã cùng nhau thương lượng về biên giới lãnh thổ giữa hai nước. Nhưng phải đến năm 1979, khi nhà nước CHND Cam-pu-chi-a được thành lập, hai nước mới có nhiều điều kiện thuận lợi để nối lại quan hệ về mọi mặt, trong đó có việc giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước.

Thực hiện thỏa thuận tại Điều 4 Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa CHXNCH Việt Nam và CHND Cam-pu-chi-a (ký ngày 18/2/1979), từ năm 1981, Việt Nam và Cam-pu-chi-a đã trao đổi thống nhất các nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới. Đến ngày 20/7/1983, tại Phnôm-Pênh, hai bên đã tiến hành lễ ký chính thức “Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chi-a”; đồng thời ký “Hiệp định về Quy chế biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chi-a” để giữ gìn hòa bình, ổn định trật tự trị an khu vực biên giới trong khi hai bên đàm phán giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ.

Tiếp đó, ngày 27/12/1985, tại Phnôm-Pênh (Cam-pu-chi-a), Bộ trưởng Ngoại giao hai nước Việt Nam và Cam-pu-chi-a đã ký “Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chi-a” (gọi tắt là Hiệp ước hoạch định biên giới), hiệp ước này chính thức có hiệu lực từ ngày 22/02/1986.

Từ năm 1986 – 1988, Việt Nam và Cam-pu-chi-a đã tiến hành phân giới được 200km/1.137km đường biên và cắm được 72/322 mốc giới dự kiến. Tuy nhiên, sau 3 năm tiến hành, phía Cam-pu-chi-a đề nghị dừng công tác phân giới, cắm mốc vì lý do nội bộ.

Từ năm 1999 đến năm 2005, đàm phán Việt Nam – Cam-pu-chi-a về biên giới đã được nối lại trong khuôn khổ Uỷ ban liên hợp. Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 đã được ký chính thức tại thành phố Hà Nội ngày 10/10/2005. Hiệp ước đã được cơ quan quyền lực cao nhất của hai nước phê chuẩn và có hiệu lực từ ngày 6/12/2005.

Ngày 22/12/2005, hai bên đã thông qua Kế hoạch tổng thể về công tác phân giới cắm mốc và thông qua Điều lệ tổ chức hoạt động của Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc hai nước. Hai Bên thống nhất cắm trên toàn tuyến biên giới 372 cột mốc (không tính mốc ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Cam-pu-chi-a). Ngày 27/9/2006, hai nước long trọng tổ chức Lễ khánh thành cột mốc đầu tiên trên biên giới đất liền Việt Nam – Cam-pu-chi-a (theo Hiệp ước bổ sung năm 2005) tại cặp cửa khẩu quốc tế Mộc Bài (Tây Ninh) – Bà-vét (Svey-riêng) với sự tham dự của Thủ tướng hai nước. Năm 2007, hai bên phối hợp triển khai công tác cắm mốc tại các tỉnh ở Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Tháng 4/2010, công tác phân giới cắm mốc mới được bắt đầu trên toàn tuyến.

Trong quá trình triển khai công tác phân giới cắm mốc trên thực địa, các cơ quan hữu quan và lực lượng cắm mốc của hai bên gặp rất nhiều khó khăn: hai bên chưa xây dựng được một bộ bản đồ mới phù hợp với địa hình thực tế, mà phải sử dụng bộ bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 do Pháp xuất bản năm 1952 – 1954 và bản đồ UTM tỷ lệ 1/50.000 do Mỹ xuất bản những năm 60 của thế kỷ XX, tức là từ hơn một nửa thế kỷ trước; địa hình ở khu vực biên giới luôn bị thay đổi (tác động từ thiên nhiên và con người), có những chỗ hoàn toàn không còn dấu vết gì so với bản đồ; nhiều nơi vào mùa mưa (6 – 7 tháng) các đội cắm mốc không đi thực địa được; việc quản lý biên giới ở nhiều nơi còn chồng lấn do có khu vực dân Việt Nam sống trên lãnh thổ Cam-pu-chi-a, có khu vực dân Cam-pu-chi-a lại sống trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, để hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc cần có sự nỗ lực, phối hợp chặt chẽ hơn nữa của các cơ quan liên quan của hai nước.

Để giải quyết các khu vực biên giới còn tồn đọng, tháng 4/2011 Chính phủ hai nước đã ký Bản ghi nhớ (MOU) điều chỉnh biên giới ở các khu vực này theo hiện trạng quản lý trên cơ sở hoán đổi đất cho nhau theo nguyên tắc cân bằng về diện tích và lợi ích. Đây là một bước đột phá nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong phân giới cắm mốc, góp phần thúc đẩy nhanh việc hoàn thành phân giới cắm mốc của hai bên, đồng thời đảm bảo sự ổn định, hạn chế tối đa việc gây xáo trộn sản xuất, đời sống và đáp ứng nguyện vọng của người dân hai bên biên giới. Ngày 24/6/2012, Thủ tướng Chính phủ hai nước đã chứng kiến Lễ khánh thành cột mốc 314 – cột mốc ở vị trí cuối cùng trên đường biên giới đất liền hai nước.

Tính đến tháng 11/2013, hai bên đã xác định 237 vị trí/287 cột mốc, xây dựng 231 vị trí/280 cột mốc, phân giới được khoảng 858km đường biên giới. Trong đó, số cột mốc đã cắm tại từng tỉnh như sau:

Đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Cam-pu-chi-a dài khoảng 1137km, đi qua 10 tỉnh của Việt Nam là Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và 10 tỉnh của Cam-pu-chi-a là Ra-ta-na-ki-ri, Môn-đun-ki-ri, Công-pông-chàm, Ca-ra-chê, Svey-riêng, Prây-veng, Kần-đan, Tà-keo và Kăm-pốt.

Điều kiện khí hậu tại khu vực này chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới, gió mùa, độ ẩm cao, thuận lợi cho trồng cây công, nông nghiệp, nuôi thủy hải sản, giúp hình thành nên những doanh trại trồng cây công nghiệp lớn hay những cánh đồng lúa trải dài. Thông thường, mùa mưa từ tháng 4, tháng 5 đến tháng 9, tháng 10 dương lịch, chiếm tới 90% lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 9, tháng 10 đến tháng 4, tháng 5 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26 – 27ºC.

Khác với hai tuyến biên giới Việt Nam – Lào và Việt Nam – Trung Quốc, đường biên giới này có địa hình tương đối bằng phẳng, ít đồi núi hiểm trở. Chính vì vậy, hệ thống giao thông liên kết giữa hai nước bằng đường bộ, đường sông phát triển thuận lợi, hình thành các tuyến đường bộ như đường liên quốc gia, quốc lộ, tỉnh lộ, đường sông và nhiều đường mòn, đặc biệt sau này sẽ hình thành tuyến đường sắt, đường bộ xuyên Á nối kết với các trung tâm thương mại lớn của khu vực, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy giao lưu, hiểu biết lẫn nhau cũng như mang lại nhiều lợi ích thiết thực về kinh tế và thương mại cho cư dân hai bên biên giới. Bên cạnh hệ thống giao thông được cải thiện, hệ thống cửa khẩu biên giới đã và đang được Chính phủ hai nước quan tâm đầu tư. Tính đến tháng 7 năm 2012, hai nước Việt Nam – Cam-pu-chi-a đã thỏa thuận mở 10 cửa khẩu quốc tế và 12 cửa khẩu chính, trong đó có 19 cửa khẩu đường bộ và 3 cửa khẩu đường sông là  Thường Phước (Đồng Tháp) – Côk-rô-ca (Prây-veng); sông Tiền (An Giang) – Ca-om-sam-no (Kần-đan); Vĩnh Hội Đông (An Giang) – Kom-pung-kroxăng (Tà-keo). Hệ thống cửa khẩu này đã giúp cho việc trao đổi hàng hóa giữa hai nước, sự giao lưu của dân cư hai bên nhanh chóng và thuận tiện.

Các điều ước về biên giới trên đất liền Việt Nam – Cam-pu-chi-a

Việt Nam và Cam-pu-chi-a đã chính thức ký kết 4 hiệp ước, hiệp định về biên giới trên đất liền giữa hai nước, cụ thể là:

Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chi-a ký ngày 20/7/1983 tại thủ đô Phnôm-Pênh (Cam-pu-chi-a).

Hiệp ước gồm 4 điều. Nội dung pháp lý quan trọng nhất được thể hiện tại Điều 1, ghi rõ “Trên đất liền, hai bên coi đường biên giới hiện tại giữa hai nước được thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương (SGI), thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất (kèm theo 26 mảnh bản đồ đã được hai bên xác nhận), là đường biên giới quốc gia giữa hai nước”. Hai bên cũng thống nhất nguyên tắc “ở nơi nào đường biên giới chưa được vẽ trên bản đồ hoặc hai bên đều thấy chưa hợp lý thì hai bên sẽ cùng nhau bàn bạc việc giải quyết trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Cam-pu-chi-a, phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế”.

Điều 2 Hiệp ước quy định hai bên sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp để hoạch định đường biên giới giữa hai nước trong vùng nước lịch sử đã được hai bên thỏa thuận theo tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Cam-pu-chi-a, phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế.

Điều 3 ấn định việc thành lập Ủy ban liên hợp để hoạch định đường biên giới trên đất liền và đường biên giới trên biển và soạn thảo Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước.

Điều 4 quy định về điều khoản thi hành, theo đó Hiệp ước nguyên tắc sẽ được phê chuẩn và có hiệu lực kể từ ngày trao đổi văn kiện phê chuẩn (ngày 27/9/1983).

Hiệp định quy chế biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chia ký ngày 20/7/1983 tại thủ đô Phnôm-Pênh (Cam-pu-chi-a).

Hiệp định gồm 19 điều, ngoài việc tái khẳng định những nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ biên giới giữa hai nước, đã thỏa thuận những biện pháp tạm thời nhằm duy trì việc quản lý biên giới, trong khi phần lớn đường biên giới giữa hai nước chưa được phân giới cắm mốc rõ ràng, cụ thể là:

– Hai bên tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; hợp tác quản lý, bảo vệ đường biên, mốc giới, bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới; giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ biên giới bằng biện pháp hòa bình.

– Hai bên giải quyết vấn đề qua lại giữa hai quốc gia, giữa các địa phương và việc qua lại của cư dân biên giới; giao thông đường bộ, đường thủy giữa hai nước và các vấn đề khác liên quan trên cơ sở tôn trọng lợi ích chính đáng của các bên và quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân hai bên trong khu vực biên giới.

– Hai bên cùng hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; hợp tác khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên, môi trường ở khu vực biên giới…

Hiệp định có giá trị trong 5 năm từ khi Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới hai nước có hiệu lực (tức là ngày 27/9/1983). Ba tháng trước khi hết hạn, nếu không bên nào đề nghị thay đổi, Hiệp định sẽ tự động gia hạn thêm 5 năm.

Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chi-a ký ngày 27/12/1985 tại thủ đô Phnôm-Pênh (Cam-pu-chi-a).

Để xác định chính thức đường biên giới hai nước, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, ngày 27/12/1985, hai nước đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia. Hiệp ước gồm 5 điều với các nội dung chủ yếu sau:

Điều 1 nêu rõ, căn cứ vào Điều 1 của Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam – Cam-pu-chi-a ký ngày 20/7/1983 và các biên bản giữa đoàn đại biểu Chính phủ hai nước trong Ủy ban liên hợp hoạch định biên giới ký ngày 13/7/1984 và ngày 8/12/1984, hai bên đã thỏa thuận hoạch định đường biên giới quốc gia trên đất liền giữa hai nước và được thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất (26 mảnh) và bản đồ tỷ lệ 1/50.000 UTM (40 mảnh).

Điều 2 quy định các vấn đề liên quan đến sông, suối, rạch biên giới theo nguyên tắc sông, suối biên giới dù có đổi dòng, đường biên giới vẫn giữ nguyên; những cù lao, bãi bồi dọc sông, suối biên giới ở phía bên nào sẽ thuộc bên đó; đối với các cầu biên giới, đường biên giới đi chính giữa cầu.

Điều 3 đề cập đến việc giải quyết vấn đề biên giới trên biển. Tuy nhiên, do quan điểm hai bên còn xa nhau nên Hiệp ước chỉ nêu nguyên tắc chung là lấy căn cứ theo hải đồ do Cơ quan đo đạc thủy văn Pháp in năm 1955 và 1956 tỷ lệ 1/182.650 để nghiên cứu giải quyết.

Điều 4 nêu thỏa thuận thành lập Ủy ban liên hợp phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới giữa hai nước và nhiệm vụ của Ủy ban liên hợp này. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc trên thực địa, Ủy ban liên hợp sẽ soạn thảo Nghị định thư cuối cùng.

Điều 5 quy định rõ điều khoản thi hành, theo đó hai bên sẽ trao đổi thư phê chuẩn và Hiệp ước có hiệu lực kể từ ngày trao đổi thư phê chuẩn Hiệp ước.

Hiệp ước được Hội đồng nhà nước Việt Nam phê chuẩn ngày 30/1/1986 và Quốc hội Cam-pu-chi-a phê chuẩn ngày 7/2/1986. Ngày 22/2/1986, tại thành phố Hà Nội, hai bên đã trao đổi văn kiện phê chuẩn Hiệp ước và Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam – Cam-pu-chi-a có hiệu lực từ ngày này.

Hiệp ước giữa nước CHXHCN Việt Nam và Vương quốc Cam-pu-chi-a bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985

Để tạo cơ sở pháp lý thuận lợi triển khai công tác phân giới cắm mốc trên thực địa phù hợp với tình hình thực tế, ngày 10/10/2005, tại thành phố Hà Nội, hai nước ký Hiệp ước bổ sung Hiệp ước Hoạch định biên giới năm 1985 với các nội dung chính như sau:

– Khẳng định giá trị của Hiệp ước năm 1985, nhấn mạnh văn kiện ký kết lần này là Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985, nhằm mục đích “sớm kết thúc tiến trình phân giới và cắm mốc”. Điều III (mục 4) và Điều IV (mục 1) khẳng định quyết tâm này bằng quy định hai bên thống nhất thông qua kế hoạch tổng thể phân giới cắm mốc trước cuối năm 2005, phấn đấu hoàn thành phân giới cắm mốc trước tháng 12/2008.

– Về sông suối biên giới, thống nhất điều chỉnh đường biên giới đi vào giữa dòng sông suối, để toàn bộ sông suối biên giới là sông suối chung giữa hai nước.

– Để tạo điều kiện kỹ thuật thuận lợi cho quá trình phân giới và cắm mốc đường biên giới trên đất liền, hai bên thống nhất rà soát việc chuyển vẽ đường biên giới từ bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 sang bản đồ UTM tỷ lệ 1/50.000. Đối với những khu vực mà hai bên không nhất trí được về kết quả đối chiếu cũng như giải pháp kỹ thuật thì đường biên giới tại các khu vực đó sẽ giữ nguyên như trên bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000.

– Về quản lý biên giới: cho đến khi hai bên hoàn thành công việc phân giới cắm mốc, việc quản lý đường biên giới sẽ tiếp tục được thực hiện theo Thông cáo báo chí ngày 17/01/1995: ở những nơi đã phân giới cắm mốc thì quản lý theo kết quả phân giới cắm mốc, ở những nơi chưa phân giới cắm mốc thì tiếp tục quản lý như trước ngày 17/01/1995.

– Điều IV quy định xây dựng bản đồ đường biên giới quốc gia, Nghị định thư về phân giới và cắm mốc đường biên giới trên đất liền như một bộ phận cấu thành của Hiệp ước Hoạch định biên giới năm 1985 và Hiệp ước bổ sung.

Hiệp ước bổ sung là cơ sở để hai nước hoàn thành dứt điểm công tác phân giới cắm mốc, thực hiện phương châm mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã thoả thuận là xây dựng đường biên giới Việt Nam – Cam-pu-chi-a thành đường biên giới hoà bình, ổn định, hợp tác, cùng phát triển.

Công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam – Cam-pu-chi-a trên thực địa

Từ sau khi hòa bình được lập lại ở Đông Dương (1954), Việt Nam và Cam-pu-chi-a đã cùng nhau thương lượng về biên giới lãnh thổ giữa hai nước. Nhưng phải đến năm 1979, khi nhà nước CHND Cam-pu-chi-a được thành lập, hai nước mới có nhiều điều kiện thuận lợi để nối lại quan hệ về mọi mặt, trong đó có việc giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước.

Thực hiện thỏa thuận tại Điều 4 Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa CHXNCH Việt Nam và CHND Cam-pu-chi-a (ký ngày 18/2/1979), từ năm 1981, Việt Nam và Cam-pu-chi-a đã trao đổi thống nhất các nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới. Đến ngày 20/7/1983, tại Phnôm-Pênh, hai bên đã tiến hành lễ ký chính thức “Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chi-a”; đồng thời ký “Hiệp định về Quy chế biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chi-a” để giữ gìn hòa bình, ổn định trật tự trị an khu vực biên giới trong khi hai bên đàm phán giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ.

Tiếp đó, ngày 27/12/1985, tại Phnôm-Pênh (Cam-pu-chi-a), Bộ trưởng Ngoại giao hai nước Việt Nam và Cam-pu-chi-a đã ký “Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Cam-pu-chi-a” (gọi tắt là Hiệp ước hoạch định biên giới), hiệp ước này chính thức có hiệu lực từ ngày 22/02/1986.

Từ năm 1986 – 1988, Việt Nam và Cam-pu-chi-a đã tiến hành phân giới được 200km/1.137km đường biên và cắm được 72/322 mốc giới dự kiến. Tuy nhiên, sau 3 năm tiến hành, phía Cam-pu-chi-a đề nghị dừng công tác phân giới, cắm mốc vì lý do nội bộ.

Từ năm 1999 đến năm 2005, đàm phán Việt Nam – Cam-pu-chi-a về biên giới đã được nối lại trong khuôn khổ Uỷ ban liên hợp. Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 đã được ký chính thức tại thành phố Hà Nội ngày 10/10/2005. Hiệp ước đã được cơ quan quyền lực cao nhất của hai nước phê chuẩn và có hiệu lực từ ngày 6/12/2005.

Ngày 22/12/2005, hai bên đã thông qua Kế hoạch tổng thể về công tác phân giới cắm mốc và thông qua Điều lệ tổ chức hoạt động của Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc hai nước. Hai Bên thống nhất cắm trên toàn tuyến biên giới 372 cột mốc (không tính mốc ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Cam-pu-chi-a). Ngày 27/9/2006, hai nước long trọng tổ chức Lễ khánh thành cột mốc đầu tiên trên biên giới đất liền Việt Nam – Cam-pu-chi-a (theo Hiệp ước bổ sung năm 2005) tại cặp cửa khẩu quốc tế Mộc Bài (Tây Ninh) – Bà-vét (Svey-riêng) với sự tham dự của Thủ tướng hai nước. Năm 2007, hai bên phối hợp triển khai công tác cắm mốc tại các tỉnh ở Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Tháng 4/2010, công tác phân giới cắm mốc mới được bắt đầu trên toàn tuyến.

Trong quá trình triển khai công tác phân giới cắm mốc trên thực địa, các cơ quan hữu quan và lực lượng cắm mốc của hai bên gặp rất nhiều khó khăn: hai bên chưa xây dựng được một bộ bản đồ mới phù hợp với địa hình thực tế, mà phải sử dụng bộ bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 do Pháp xuất bản năm 1952 – 1954 và bản đồ UTM tỷ lệ 1/50.000 do Mỹ xuất bản những năm 60 của thế kỷ XX, tức là từ hơn một nửa thế kỷ trước; địa hình ở khu vực biên giới luôn bị thay đổi (tác động từ thiên nhiên và con người), có những chỗ hoàn toàn không còn dấu vết gì so với bản đồ; nhiều nơi vào mùa mưa (6 – 7 tháng) các đội cắm mốc không đi thực địa được; việc quản lý biên giới ở nhiều nơi còn chồng lấn do có khu vực dân Việt Nam sống trên lãnh thổ Cam-pu-chi-a, có khu vực dân Cam-pu-chi-a lại sống trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, để hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc cần có sự nỗ lực, phối hợp chặt chẽ hơn nữa của các cơ quan liên quan của hai nước.

Để giải quyết các khu vực biên giới còn tồn đọng, tháng 4/2011 Chính phủ hai nước đã ký Bản ghi nhớ (MOU) điều chỉnh biên giới ở các khu vực này theo hiện trạng quản lý trên cơ sở hoán đổi đất cho nhau theo nguyên tắc cân bằng về diện tích và lợi ích. Đây là một bước đột phá nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong phân giới cắm mốc, góp phần thúc đẩy nhanh việc hoàn thành phân giới cắm mốc của hai bên, đồng thời đảm bảo sự ổn định, hạn chế tối đa việc gây xáo trộn sản xuất, đời sống và đáp ứng nguyện vọng của người dân hai bên biên giới. Ngày 24/6/2012, Thủ tướng Chính phủ hai nước đã chứng kiến Lễ khánh thành cột mốc 314 – cột mốc ở vị trí cuối cùng trên đường biên giới đất liền hai nước.

Tính đến tháng 11/2013, hai bên đã xác định 237 vị trí/287 cột mốc, xây dựng 231 vị trí/280 cột mốc, phân giới được khoảng 858km đường biên giới. Trong đó, số cột mốc đã cắm tại từng tỉnh như sau:

STT Tỉnh Số cột mốc đã cắm
1 Kom Tum 29
2 Gia Lai 9
3 Đắc Lắc 8
4 Đắc Nông 16
5 Bình Phước 29
6 Tây Ninh 95
7 Long An 42
8 Đồng Tháp 8
9 An Giang 27
10 Kiên Giang 17
Tổng số 280

  Bảng thống kê số lượng mốc đã cắm tại các tỉnh biên giới Việt Nam – Cam-pu-chi-a

Thời gian qua, ta đã chủ động đưa ra nhiều giải pháp thúc đẩy tiến trình phân giới cắm mốc, tích cực phối hợp với Cam-pu-chi-a trong đàm phán, khảo sát thực địa để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình phân giới cắm mốc, tuy nhiên hiện vẫn còn một số khu vực tồn đọng do chưa thống nhất được công tác chuyển vẽ đường biên giới. Hai bên khẳng định sẽ phối hợp chặt chẽ trong việc tìm kiếm các biện pháp thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn đọng cả trong đàm phán lẫn trên thực địa, quyết tâm sớm kết thúc công tác phân giới cắm mốc, tạo điều kiện xây dựng đường biên giới Việt Nam – Cam-pu-chi-a hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển./.

Thời gian qua, ta đã chủ động đưa ra nhiều giải pháp thúc đẩy tiến trình phân giới cắm mốc, tích cực phối hợp với Cam-pu-chi-a trong đàm phán, khảo sát thực địa để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình phân giới cắm mốc, tuy nhiên hiện vẫn còn một số khu vực tồn đọng do chưa thống nhất được công tác chuyển vẽ đường biên giới. Hai bên khẳng định sẽ phối hợp chặt chẽ trong việc tìm kiếm các biện pháp thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn đọng cả trong đàm phán lẫn trên thực địa, quyết tâm sớm kết thúc công tác phân giới cắm mốc, tạo điều kiện xây dựng đường biên giới Việt Nam – Cam-pu-chi-a hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển./.

Hải Yến // http://bienphongvietnam.gov.vn

Views: 3